Văn mẫu phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Văn mẫu lớp 11: Phân tích hai khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, được tuyển chọn từ Hoc2K các tác phẩm văn mẫu xuất sắc, cùng với hướng dẫn viết chi tiết và xuất sắc nhất. Điều này giúp các em có thêm nguồn tư liệu học tập phong phú, cũng như nâng cao kỹ năng phân tích và viết văn viết văn khi tường thuật về thơ.

Hướng dẫn chi tiết phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Phân tích khổ thơ đầu

– Câu hỏi chậm rãi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” có thể được hiểu theo hai cách: Đây có thể coi là một lời mời, một trách móc nhẹ nhàng của người con gái và đồng thời cũng là một câu hỏi mà nhà thơ đặt ra cho chính mình. Bất kể cách hiểu nào, câu thơ đều nói về việc quay trở về xứ Huế: sử dụng từ “không về” để nói về tình hình khó khăn mà nhà thơ đang phải đối mặt khi quay trở lại. Điều này thể hiện căn bệnh phong ác độc mà nhà thơ đang trải qua.

Bức tranh vẻ đẹp của phong cảnh thôn Vĩ được nhà thơ khắc họa tỉ mỉ, tận tâm từ xa đến gần, từ trên cao xuống dưới:

Dòng văn “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” lặp lại từ “nắng” tạo nên một khung cảnh tươi sáng, dịu dàng và trong trẻo, với hình ảnh những hàng cây cau đặc trưng tại xứ Huế.

Câu “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” tạo ra hiệu ứng so sánh, khiến người đọc cảm nhận vẻ đẹp tươi mát, xanh mịn của khu vườn ở thôn Vĩ, đồng thời tạo ra ấn tượng mạnh mẽ.

Mô tả “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mang đến hình ảnh một người con gái xứ Huế với vẻ e ấp, thẹn thùng và khuôn mặt mang nét đẹp dân dã và đặc trưng của miền quê.

Phân tích khổ thơ thứ 2

Bức tranh về phong cảnh được tạo nên bởi sự lưu động và biến đổi của gió và mây, chuyển từ cảnh vườn sang sông nước. Gió và mây tách biệt, tạo nên sự rõ ràng và khác biệt giữa chúng.

Bằng cách nhân hóa hình ảnh, nhà thơ sử dụng câu “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” để diễn đạt nỗi buồn nặng trĩu trong tâm hồn. Từ “lay” mô tả sự chuyển động nhẹ nhàng nhưng cũng mang theo sự đìu hiu, vắng vẻ và buồn bã của cảnh vật.

Câu “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay” tiết lộ tâm trạng lo lắng, bồn chồn và thấp thỏm của nhà thơ.

Văn mẫu phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Văn mẫu số 1 – Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Hàn Mặc Tử nổi tiếng là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới, sở hữu khả năng sáng tạo mạnh mẽ. Tác phẩm của ông bắt nguồn từ mối tình đặc biệt với một cô gái xứ Vĩ Dạ, thôn quê yên bình ven dòng sông Hương, nằm trong vùng đất xinh đẹp và lãng mạn của Huế. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử mang đầy cảm xúc và đặc biệt, tâm trạng chính của nhà thơ đã được thể hiện rõ nét qua hai khổ đầu của tác phẩm.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

Câu thơ khai mở mang vẻ như một câu hỏi, tuy nhiên, bên trong nó ẩn chứa một cảm xúc vô cùng nhẹ nhàng và đầy xúc động. Câu hỏi này mang sức quyến rũ khó cưỡng đối với nhà thơ, khi nó đề cập đến cô gái thôn Vĩ, hoặc có thể là sự nhầm lẫn của tác giả, hiện lên những tâm tư thầm kín khi trở lại quê hương và đối mặt với cảm xúc của mình đối với thôn Vĩ và những con người ở đó. Mặc dù bài thơ không sử dụng cụm từ “về thăm” mà lại chọn “về chơi”, nhưng điều này mang ý nghĩa tự nhiên và gần gũi. Hai khổ thơ tiếp theo tập trung vào miêu tả thiên nhiên và khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ, đọng mãi trong kí ức của nhà thơ.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Có thể thấy rõ rằng nhà thơ không đơn thuần mô tả cảnh vật mà chỉ gợi lên những hình ảnh tinh tế, đẹp nhất về cảnh vật đó. Dưới ánh sáng ban mai chiếu rọi, những hàng cây cau cao vút như trải dài, tạo nên khung cảnh thôn dã, phong cảnh phong cách của thôn Vĩ. Ánh sáng sớm mai làm cho cây cau trở nên tươi mới, nắng sớm lan tỏa đều trên từng cành cây cau, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, sự cân nhắc giữa thiên nhiên và cảnh vật. Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” mang đến cho người đọc cảm giác như nhà thơ đang bước đi giữa khu vườn thôn Vĩ. Việc sử dụng các tính từ đặc sắc như “mướt” và “xanh”, cùng với hình ảnh so sánh “mướt như ngọc”, đã tạo nên ấn tượng về một khu vườn với màu xanh tươi mát, lấp lánh như màu ngọc bích. Khu vườn quê hương tại thôn Vĩ hiện lên với vẻ đẹp mộc mạc, quyến rũ dưới ánh sáng ban mai.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Sự bất ngờ khi con người xuất hiện đột ngột trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” làm cho cảnh vật trở nên sống động hơn, và có thể đó chính là chủ nhân của khu vườn. Tính hiện diện này mang một sự thầm lặng, nhưng vẫn nhẹ nhàng, khuôn mặt hiền hậu lấp ló sau hàng lá trúc. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã diễn đạt rõ nét không chỉ về con người thôn Vĩ mà còn về thiên nhiên, như khu vườn xinh đẹp, con người chân chất và nhân hậu, tất cả được gói gọn trong bốn dòng của khổ thơ đầu tiên. Từ khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc vào một thế giới tình cảm nhẹ nhàng, nghiêm trang, nhưng cũng đầy ưu tư và trăn trở của một nhà thơ tài hoa.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Nỗi buồn của việc chia tay và cảm giác lúng túng, tội lỗi sau lời chia ly được hiện rõ trong câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đoạn thơ khắc họa nhịp điệu êm đềm, dịu dàng của dòng sông và sự thay đổi của mây và gió. Mây và gió thực chất tượng trưng cho mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời, tuy nhiên trong thơ của Hàn Mặc Tử, thay vì hướng về nhau, gió và mây lại đi ngược chiều. Thực tế, gió thổi và mây trôi, gió thổi làm sóng mặt nước, nhưng trong đoạn thơ này, mây và gió lại xa cách, điều này hoàn toàn trái với cảm xúc của nhà thơ. Mây và gió không hòa quện, khiến cho dòng nước không lăn tăn, không gợn sóng, chỉ buồn nhìn theo những cánh hoa bắp nhẹ nhàng đung đưa. Hình ảnh dòng sông, mặc dù tươi đẹp, nhưng lại hẻo lánh, lạnh lẽo, mang trong mình nỗi buồn, cô đơn và mất mát của cuộc sống và của nhà thơ.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhà thơ, mặc dù trải qua nỗi buồn và cảm giác cô đơn, nhưng không mất đi niềm hy vọng vào tình yêu và sự đáp lại. Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ, mà còn dành cho thiên nhiên và con người ở nơi này. Cảnh sông trở nên lãng mạn, thơ mộng và rạng ngời, dòng sông không chỉ còn là dòng sông thông thường mà trở thành dòng sông trăng tràn ngập ánh sáng. Con thuyền không chỉ mang theo ánh trăng mà còn mang theo cả niềm hy vọng khiêm tốn của nhà thơ. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện sự lo lắng, sợ hãi, nhưng trong màn sương mờ dày đặc của tuyệt vọng và đau khổ, một niềm hy vọng nhỏ bé vẫn lửa cháy trong tâm hồn nhà thơ. Chỉ có trăng mới hiểu được những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ, có thể bởi nhà thơ quá cô đơn, quá trống trải, hoặc chờ đợi quá lâu. Nhà thơ đã thông qua việc khéo léo sử dụng câu hỏi tu từ và ngôn ngữ miêu tả độc đáo, tràn đầy tính hình ảnh, đã tạo ra những bức tranh về thiên nhiên đẹp đẽ. Nhịp thơ và sự đối lập được khéo léo áp dụng để tạo ra một sự đan xen đặc trưng trong từng câu thơ. Hình ảnh thơ được nhân cách hóa đặc biệt, tạo nên chất thơ trữ tình độc đáo và sâu sắc.

Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã mở lớn cánh cửa cho người đọc nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên mơ màng và con người xứ Huế. Từ đó, chúng ta cũng có thể hiểu một phần tâm tư, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tác giả. Một thôn quê bé bên bờ sông Hương trở thành một hình ảnh tươi đẹp, rõ nét và đậm chất Huế nhờ những nét vẽ của bút pháp của Hàn Mặc Tử.

Văn mẫu số 2 – Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Có vẻ không một nhà thơ nào trong phong trào thơ mới (giai đoạn 1932 – 1945) phải chịu đựng số phận cay đắng, khó khăn hơn Hàn Mặc Tử. Số mệnh đắng cay của Hàn Mặc Tử được tiên đoán qua ý nghĩa của các biệt danh như Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh. Người thi sĩ bước đi trong cảnh giá lạnh với lòng không yên, trải tâm sự trên những tờ giấy mỏng manh và đã sáng tạo nhiều bài thơ độc đáo, trong đó có “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khi đọc bài thơ, người đọc sẽ không khỏi cảm nhận mạnh mẽ từ hai khổ đầu tiên.

Với mỗi nhà thơ, thơ tồn tại như cuộc sống chính. Để thể hiện trong thơ, mỗi từ phải trải lòng và lọc lựa qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thơ là những hình ảnh tươi mới được tái sinh thông qua lăng kính cảm xúc của nghệ sĩ. Vì vậy, nếu một bài thơ thiếu tư tưởng và tình cảm, nó trở nên nhàm chán, cảm nhận nhạt nhẽo, chỉ còn là những câu sáo rỗng được sắp xếp để giải trí, và ngôn từ không còn có khả năng làm tan chảy lòng người đọc. Trong trường hợp của “Đây thôn Vĩ Dạ”, bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tư duy:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đây là một câu hỏi tu từ của nhà thơ, người đã biến hình thành một cô gái xứ Huế với chút hờn dỗi, song sau đó lại là một lời mời chân thành khi nhà thơ sử dụng từ “chơi”, gợi lên sự thân thiết. Có lẽ câu hỏi tu từ này đồng thời là nhà thơ tự đặt ra và tự trách mình. Đây là một câu hỏi lớn và một nỗi đau nhức nhối, nhưng giờ đây lại trở thành khát khao, niềm mong ước, và niềm khắc khoải được trở về Huế của nhà thơ. Có thể nhà thơ đã đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong khi ông sáng tác bài thơ này, do đó bài thơ chỉ tràn ngập sự nuối tiếc, mong mỏi quay trở về thôn Vĩ với cảnh thiên nhiên đẹp đến nao lòng.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn, thơ mộng được tận hưởng từ xa đến gần. Câu thơ chứa thông điệp về “nắng” đã khắc lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Cây cau, với vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, được tượng trưng qua từ “nắng”. Với thân hình thẳng tắp và tán lá xanh tươi mát, cây cau trong vườn thôn Vĩ tươi tốt đến mức khiến người ở xa cũng phải ngạc nhiên trước “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dù không xác định rõ là vườn của ai, đọc giả vẫn cảm nhận được đó là vườn của cô gái Huế.

Từ “mướt quá” mô tả sắc xanh của lá cây. Tác giả lựa chọn màu xanh ngọc bích thay vì màu xanh da trời, xanh thẫm có lẽ để tạo ra một sắc xanh tinh khiết, tinh túy và quyến rũ. Bức tranh về thôn Vĩ ngày càng tươi đẹp hơn, hiện lên đầy đủ và hoàn mỹ hơn với sự xuất hiện của người con gái mang dải lá trúc che ngang khuôn mặt “chữ điền”. Thôn Vĩ nổi tiếng với sắc xanh của trúc, một loại cây thường thấy trước ngõ. Trong tâm tư của thi nhân, hình ảnh này đột nhiên hiện lên qua lớp chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc mảnh mai, trong khi “mặt chữ điền” gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu… Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên.

Trong khổ thơ đầu, nhà thơ nhìn cảnh vật với niềm lạc quan, tình yêu đời rạng ngời. Trong khi đó, ở khổ thơ thứ hai, đã có sự thay đổi trong cảm giác mặc cảm, sự chia ly:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Vẻ đẹp tinh túy của xứ Huế được phác họa trong hai câu thơ, là dòng sông Hương chậm rãi chảy, hai bên bờ có vườn bắp, hoa khẽ đung đưa, gió cuốn theo gió, trên đường mây có mây. Thực tế, gió và mây lại không thể tách rời, vì khi gió thổi, mây trời mới có thể bay. Tuy nhiên, từ “chia tay” cũng xuất hiện, và dòng nước buồn thiu như mang theo một cảm giác khó diễn tả.

Khi đến hai câu thơ tiếp theo, vẫn là hình ảnh dòng sông Hương với mùi hương mơ màng, nhưng không còn nắng hay sắc xanh từ Vĩ Dạ, thay vào đó là không gian tràn ngập ánh trăng sáng trước mắt người đọc. Con thuyền biến thành thuyền trăng, dòng sông trở thành dòng sông trăng và bến đò biến thành bến Trăng.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Từ xưa đến nay, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh thuyền trăng và bến trăng. Nhưng nay, lại xuất hiện một hình ảnh mới là dòng sông trăng. Khi đọc bài thơ, người đọc cảm thấy như lạc vào cõi mộng, như thể nhà thơ sống trong nỗi khắc khoải, trông mong vô tận. Ở khổ thơ đầu, câu hỏi tu từ xuất hiện ở câu đầu, còn đối với khổ thứ hai thì câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Dường như nhà thơ đã dự cảm được sự thất vọng và cũng như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp, mình sẽ vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.

Thành công của đoạn văn này là nhờ vào việc sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi tu từ, so sánh sử dụng nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ trong suốt bài thơ. Nhà thơ đã vẽ ra trước mắt chúng ta một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống và ẩn chứa tấm lòng của nhà thơ. Đó là một bức tranh đẹp về con người. Một tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và yêu đời của một nhà thơ đa sầu, đa cảm. Hàn Mặc Tử đã thể hiện chân thực tâm trạng dao động của một nhân vật trữ tình mang tâm trạng nặng trĩu.

Trên đây là bài viết Văn mẫu phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất được chia sẻ bởi Hoc2K.vn. Hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn học tốt.

User Rating: 5 (1 vote)

Đóng góp ý kiến!

Leave a reply

Hoc2K.Vn - Học Online
Logo